Ngành thép thay đổi cấu trúc hậu biến động do đại dịch Covid-19
Doanh nghiệp thép trong nước cần chủ động kiểm soát tồn kho nguyên vật liệu để có kế hoạch mua bổ sung đảm bảo duy trì đủ vật tư cho sản xuất hậu “bão Covid”.
“Đại dịch làm rõ sự chậm trễ trong cải cách cấu trúc tại các công ty thép”, Atsushi Yamaguchi, nhà phân tích cấp cao tại SMBC Nikko Securities, nói.
Các công ty thép châu Á đang gấp rút đóng cửa những cơ sở có chi phí cao và giảm công suất. Posco hồi tháng 7 thông báo sẽ đóng cửa một lò cao tại Pohang – có thể giảm tới 1,3 triệu tấn thép/năm, tương đương 3% tổng công suất. Posco còn cân nhắc đóng cửa hoặc sửa chữa một lò cao khác sớm nhất vào năm 2025.
Thông báo trên được đưa ra ba năm sau khi Posco lần đầu tiên tuyên bố ý định đóng cửa lò cao. Lần này, “án tử” có vẻ chắc chắn, khi đại dịch Covid-19 khiến lực cầu tại Hàn Quốc và doanh thu của Posco giảm 16% trong quý II. Tại Nhật Bản, sản lượng thép hàng năm dự kiến giảm 80 triệu tấn, lần giảm đầu tiên trong 52 năm.
Ngành thép Việt Nam trong thời đại dịch
Dịch Covid-19 hai lần bùng phát và diễn biến còn phức tạp tiếp tục gây áp lực lên tình hình kinh doanh trong năm 2020. Ghi nhận, ngành xây dựng chỉ tăng trưởng 4,5% trong 6 tháng qua, thấp hơn so với mức 7,8% cùng kỳ nhưng cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP là 1,8%. Sản lượng tiêu thụ thép xây dựng và thép ống giảm lần lượt 8,1% và 6,8%; trong khi sản lượng tiêu thụ tôn mạ chỉ giảm 1,2% do nhu cầu trong nước mạnh.
Đáng kể nhất, hoạt động xuất khẩu gặp nhiều khó khăn, do nhu cầu suy yếu và cách li xã hội để kiểm soát dịch bệnh, sản lượng thép thành phẩm xuất khẩu đã giảm 12,8%. Sản lượng xuất khẩu tôn mạ và thép xây dựng giảm lần lượt là 12,1% và 12,6%.
Theo giới phân tích, ngành thép đã và đang có sự thay đổi cấu trúc sau Covid-19, các công ty có xu hướng đa dạng hóa hơn cơ sở thị trường xuất khẩu để giảm sự phụ thuộc vào bất kỳ thị trường nào. Trong đó, việc hợp nhất có thể tăng tốc theo hướng có lợi cho các công ty dẫn đầu thị trường.
Ghi nhận bởi Chứng khoán Rồng Việt (VDSC), doanh nghiệp đầu ngành tiếp tục chiếm ưu thế. Riêng Hoà Phát (HPG) giành thêm thị phần miền Trung và miền Nam giúp nâng thị phần cả nước từ 26% lên 31%. Được biết, nhu cầu thép dài đang tăng cao do các khoản đầu tư lớn vào cơ sở hạ tầng, không chỉ ở Việt Nam, mà còn ở nhiều nước châu Á khác. HPG chuẩn bị tăng giá trong nửa sau năm 2020 do chi phí sản xuất tăng. HPG cũng đối mặt với một số rủi ro về giá nguyên vật liệu và giá thép có thể biến động bất lợi, mảng thép cán nóng có thể gặp khó khăn về giá bán và khâu vận hành nhà máy.
Ngành thép mang tính chu kỳ và có thể nhận thấy rõ sự phụ thuộc của ngành Thép Việt Nam vào thị trường xây dựng và BĐS khi các nhu cầu xây dựng vẫn chiếm tới 65% nhu cầu sử dụng thép ở Việt Nam. Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam – SBV, dư nợ tín dụng kinh doanh BĐS năm 2018 chiếm 7.5% dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế. Con số này hiện vẫn thấp hơn dư nợ tín dụng kinh doanh BĐS ở thời điểm đỉnh của chu kỳ BĐS trước đó (năm 2010) là 9.2%. Điểm khác biệt ở thời điểm hiện tại so với giai đoạn trước đó là sự phát triển của tín dụng tiêu dùng cá nhân, cụ thể hơn là tín dụng vay mua, sửa chữa nhà ở chiếm tới 6% dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế. Nếu cộng 2 khoản tín dụng này vào
thì lượng tín dụng dành cho BĐS đã lớn hơn thời điểm 2010. Những rủi ro về tín dụng là khá rõ ràng, nhưng tín dụng tăng lên đã là yếu tố khá tự nhiên của các nền kinh tế hiện đại ngày nay, các nước càng phát triển thì dư nợ nói chung và dư nợ tín dụng tiêu dùng nói riêng sẽ càng tăng cao. Theo kịch bản, thị trường BĐS sẽ điều chỉnh nhẹ trong các năm tới và khiến tốc độ tăng trưởng tiêu thụ thép chậm lại.
Tái cấu trúc hậu biến động
Số liệu thống kê cho thấy, trong quý 2/2020, sản lượng tiêu thụ đối với sản phẩm thép thành phẩm giảm 7% so với cùng kỳ trong 6 tháng đầu năm 2020, trong đó sản lượng tiêu thụ nội địa giảm 6%. Sản lượng xuất khẩu giảm mạnh hơn ở mức -13% so với cùng kỳ do chính sách giãn cách xã hội tại các thị trường xuất khẩu.
Tuy nhiên, so với mức giảm 14% so với cùng kỳ trong quý 1/2020, mức giảm 1% so với cùng kỳ trong quý 2/2020 có thể được coi là một dấu hiệu phục hồi. Nhu cầu trong nước thậm chí còn tăng lên 1% so với cùng kỳ trong quý 2/2020 so với mức giảm 13% trong quý 1/2020. Theo đánh giá của công ty chứng khoán SSI, điều này là do nhu cầu dồn nén từ quý 1 cũng như sức tiêu thụ thu ổn định trong kênh xây dựng dân dụng.
Theo Hiệp hội thép thế giới, nhu cầu thép toàn cầu dự kiến phục hồi 4% trong năm 2021, điều này sẽ hỗ trợ cho kênh xuất khẩu của các công ty sản xuất của Việt Nam. Lợi nhuận của HPG ước tính tăng 15% nhờ giai đoạn 2 của Khu liên hợp Dung Quất, trong khi lợi nhuận của HSG ước tính giảm nhẹ do sự điều chỉnh trong biên lợi nhuận gộp.
Nhận định về sự thay đổi cấu trúc ngành sau COVID-19, SSI cho rằng, việc hợp nhất có thể tăng tốc theo hướng có lợi cho các công ty dẫn đầu thị trường. Các công ty có xu hướng đa dạng hóa hơn cơ sở thị trường xuất khẩu để giảm sự phụ thuộc vào bất kỳ thị trường nào.
Ước tính nhu cầu trong nửa cuối năm sẽ phục hồi và tăng 4-5% so với cùng kỳ do chính sách giãn cách xã hội được nới lỏng và gia tăng đầu tư công (ước tính chiếm khoảng 15% sản lượng tiêu thụ thép). Ngoài ra, Việt Nam được hưởng lợi từ nhu cầu thép tiếp tục tăng mạnh ở Trung Quốc. Theo Hiệp hội quặng sắt và thép Trung Quốc, mức tiêu thụ thép của Trung Quốc ước tính tăng 40 triệu tấn, tương đương tăng khoảng 8% so với cùng kỳ trong nửa cuối năm 2020, và 2% cho cả năm 2020.
Nguồn sưu tầm